Hoạn Thư - biểu tượng người phụ nữ công dung ngôn hạnh
Ảnh minh họa: Internet |
Có lẽ bất cứ người Việt Nam nào cũng biết về Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du. Thế nhưng Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm thơ văn bình thường, mà đó là một kho tàng khổng lồ về kiến thức văn hóa xã hội. Bây giờ, chắc chẳng còn ai thuộc được Truyện Kiều tới mức có thể không những đọc hết mà còn đọc ngược, để thấy rằng người xưa đã từng lấy cả những câu chữ trong từng ý thơ làm điều răn dậy. Thậm chí cả dùng Truyện Kiều để bói số phận.
Hình như đại văn hào Nguyễn Du vẫn còn muốn để lại cho hậu thế nhiều ẩn ý về lẽ nhân nghĩa và thách thức tầm hiểu biết của người đời, nên trong Truyện Kiều hầu như từng sự kiện thường kèm theo những điển tích. Mà người viết bài này khi tìm được một trong những tình tiết như vậy để cuối cùng đi đến nhận định, rằng nhân vật Hoạn Thư không hề ghê gớm đáng ghét như tới nay vẫn tưởng, mà hoàn toàn trái lại- là biểu tượng của một người phụ nữ đủ công, dung, ngôn, hạnh!
Hầu như tất cả mọi diễn giải, kể cả những tài liệu nghiên cứu chuyên môn cho tới nay về cái điều “cho người thăm ván bán thuyền biết tay”, đều lí giải như để ví người ăn ở không chung thuỷ, vừa có cái mới đã phụ bạc, rẻ rúng cái cũ. Đại khái: Mới thăm ván định mua để đóng thuyền mới, mà đã đem bán ngay thuyền cũ đi, thành ra thuyền mới chưa có, thuyền cũ không còn, không có thuyền để chèo chở kiếm ăn. Người ta thường ví kẻ chưa có mới đã nới cũ ra, với người mới đi thăm ván đã bán thuyền, có ý chê người ấy:
a)Ăn ở không thủy chung (có trước không có sau, vì không biết trọng những vật cũ đã giúp mình). b)Không biết suy tính lợi hại công việc mình làm. Và vân vân…
Thế nhưng những giải thích như vậy không hề có gì chung với quyết tâm có thể nói là duy nhất của Hoạn Thư- muốn trừng phạt người chồng Phúc Sinh tội ngoại tình tệ bạc và giữ gìn hạnh phúc gia đình. Bao thế kỷ qua, Hoạn Thư vẫn bị người đời coi như biểu tượng của sự ghen tuông tàn nhẫn, độc ác, nham hiểm, của đàn bà. Và Hoạn Thư đã bị mang tiếng oan uổng cho tới nay hay người đời chưa nhìn thấy được ẩn ý của Nguyễn Du.
Hoạn Thư chỉ trách giận chồng “Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa” và muốn giữ gìn gia đình mà nàng đang có với Thúc Sinh. Và bằng cách thức vô cùng nhân từ, trí tuệ và sâu sắc độc đáo mà chỉ người phụ nữ hoàn hảo mới nghĩ ra được. Trong hoàn cảnh xã hội thời ấy, lễ giáo phong kiến cho phép người đàn ông năm thê bẩy thiếp, nên khi phát hiện Thúc Sinh nặng lòng với Thúy Kiều, có lẽ thậm chí Hoạn Thư sẵn sàng chấp nhận cảnh chung chồng với Thúy Kiều vì “Dại chi chẳng giữ lấy nền”. Và nếu như Thúc Sinh đòi hỏi điều đó, chắc sẽ có được cả hai người phụ nữ hoàn hảo làm vợ.
“Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.”
Thế nhưng, cũng như hầu hết đám đàn ông, Thúc Sinh cũng chỉ thích chơi trò “thả dê” kiểu anh tài quen thói bốc rời “Trăm nghìn đổi một trận cười như không” và Thúy Kiều là một trong những con mồi, cho nên Thúc Sinh không hề đả động đến khả năng đó mặc dù đã được vợ cả “bật đèn xanh”.
Đến mức này thì Hoạn Thư quyết định phải ra tay trừng phạt, nhưng dĩ nhiên chỉ dám để cho chồng đau đớn trong lòng cũng giống như mình khi biết chồng ngoại tình trăng hoa, theo kiểu rất ăn miếng trả miếng “hòa một đều” chứ không hơn. Và chính ở đây, nàng Hoạn Thư đã áp dụng chiêu thức “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”, mà nó thâm thúy , sâu sắc và thực tế hơn nhiều so với những gì cho tới nay hậu thế vẫn giải thích.
Có điển tích kể rằng, một người vợ trẻ về thăm bố mẹ đẻ khi trở lại nhà chồng phải đi qua con sông. Theo nhiều miêu tả khác nhau để cho thêm phần gia vị thì là lúc đêm khuya thanh vắng hay thời tiết này nọ. Nhưng đơn giản là, chỉ có mỗi một con đò để có thể qua sông. Mà gã lái đò thì thay vì chở khách lấy tiền công, với người phụ nữ trẻ gã đòi công chèo đò bằng hình thức khác chứ nhất quyết không cần tiền. Không còn cách nào khác, người phụ nữ buộc lòng phải lấy thân xác mình để trả công cho ông lái đò.
Về tới nhà, người vợ trẻ uất ức kể hết với chồng và họ lập kế hoạch trả thù. Họ mua về để ở nhà bộ ván hậu sự. Người phụ nữ quay lại bến đò “rắc thính tình” và dĩ nhiên gã lái đò cắn câu. Gã mò đến nhà người phụ nữ theo lời hò hẹn. Khi không còn mảnh vải nào trên người thì chồng bỗng bất ngờ về nhà. Cuống cuồng, người phụ nữ xúi “nhân tình” chui tọt vào cỗ áo quan. Và nắp của nó lập tức bị hai vợ chồng đóng đinh lại.
Vợ của người lái đò được gọi đến, với điều kiện nếu muốn cứu chồng chỉ có cách phải mua lại cả cỗ áo quan. Tài sản đáng giá nhất của gia đình gã lái đò là con thuyền, và phải bán đi mà mua bộ ván hậu sự để cứu chồng. Nhưng nào đã hết, chồng của người phụ nữ đã bị gã lái đò lợi dụng hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan để thỏa mãn dục vọng còn bắt vợ gã lái đò phải cho “quan hệ” ngay trên nóc cái hòm áo quan có chồng mình đang nằm ở trong ấy, nhưng: “Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!”
Mà “Để cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.”
Và đó mới chính là điều mà Hoạn Thư muốn trả thù chồng. Cái cảnh bắt Thúy Kiều hầu hạ Thúc Sinh hoàn toàn tương ứng với phương án thuyền và ván:
“Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.”
Hoạn Thư bắt Thúc Sinh cũng phải đau như nỗi đau như mình đã phải chịu:
“Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.”
Nhưng mục đích của Hoạn Thư chỉ là để trừng phạt chồng và giữ gìn hạnh phúc ra đình, chứ không hề muốn làm hại Thúy Kiều, nên kể cả khi Thúy Kiều bỏ trốn và “cuỗm” theo nhiều tài sản quí giá, Hoạn Thư cũng độ lượng bỏ qua. Còn tình cảm chơi bời của Thúc Sinh với Thúy Kiều dĩ nhiên đưa đến lời khuyên phải đến:
“Liệu mà xa chạy cao bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi.”
Cụ Nguyễn Du cố tình “đổ thêm dầu vào lửa”, miêu tả Hoạn Thư tồi tệ thế nào chăng nữa qua những thở than của Kiều:
“Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.”
Dĩ nhiên chắc chắn không thể sánh được những màn rạch mặt, tạt a xít hay lột đồ tình địch giữa đường giữa chợ để hạ nhục mà phụ nữ được giáo dục dưới mái trường XHCN hiện nay thường làm, thậm xử lý chồng bằng cách xẻo luôn của quí; thế nhưng cái nhãn ghê gớm ấy cho tới nay vẫn gắn chặt vào Hoạn Thư như biểu tượng của tính độc ác nham hiểm được che đậy. Đê người đời vô tình bỏ qua thực tiễn, là không bao giờ đối xử tàn nhẫn độc ác với Thúy Kiều.
Sự thật này làm Thúy Kiều, khi đã có trong tay quyền sinh quyền sát nhưng cũng không thể trừng phạt được Hoạn Thư trước những lập luận bào chữa không thể khôn khéo hơn:
“Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,”
Và đồng thời nhắc lại cho Thúy Kiều nhớ về thái độ tử tế của mình:
“Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.”
Với lập luận và lời cầu xin hợp tình hợp lý:
“Lòng riêng riêng những kính yêu;
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai .
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”